Văn học dân gian và đặc trưng thơ Trung đại Việt Nam và Thơ Đường

Thứ năm - 29/10/2020 05:05
I. V¨n häc d©n gian ViÖt Nam
1. Khái niệm văn học dân gian.
- Văn học dân gian là một thành tố của văn hoá dân gian, tức là phôncơlo (trí tuệ nhân dân).
- Văn học dân gian còn gọi là văn học truyền miệng hoặc văn học bình dân.
- Văn học dân gian là những sáng tác tập thể truyền miệng của nhân dân, ra đời từ thời viễn cổ, phát triển qua các thời kì lịch sử, đến cả hiện nay và mai sau. Văn học dân gian có những đặc trưng riêng so với văn học viết; nó cùng với văn học viết hợp thành nền văn học dân tộc.
tải xuống (3)
tải xuống (3)
2. Các thể loại văn học dân gian
    a. Thơ ca dân gian: tục ngữ, câu đố, ca dao, hò, vè, truyện thơ.
    b. Truyện dân gian: thần thoại, sử thi, truyền thuyết, cổ tích, truyện cười, truyện ngụ ngôn.
    c. Sân khấu dân gian: chèo, tuồng đồ.
3. Những đặc trưng cơ bản của văn học dân gian
    a. Tính tập thể (trong sáng tạo, trong lưu truyền, trong sử dụng và cảm thụ...)
    b. Tính truyền miệng.
    c. Gắn với sinh hoạt xã hội (đời sống vật chất và tinh thần của nhân dân lao động...)
4. Giá trị và vai trò của văn học dân gian trong nền văn học dân tộc
    a. Văn học dân gian là kho báu về trí tuệ, tâm hồn và thẩm mĩ cao đẹp của nhân dân.
    b. Văn học dân gian là ngọn nguồn, là cơ sở kết tinh của văn học dân tộc.
II. V¨n häc Trung ®¹i ViÖt Nam
1. Sự nghiệp trước tác của Nguyễn Trãi
    - "Quân trung từ mệnh tập".
    - "Bình Ngô Đại Cáo"
    "Dư địa chí "... "Lam Sơn thực lực"
    "Phú núi Chí Linh", "Quốc âm thi tập", "Ức Trai thi tập",
    - v.v...
    a. Nội dung thơ văn Nguyễn Trãi.
    *) Tư tưởng nhân nghĩa, yêu nước và thương dân sâu sắc
    - Thương dân, trừng phạt kẻ có tội (điếu phạt) tiêu diệt quân tàn bạo hại nước hại dân (trừ bạo), đem lại yên vui, hạnh phúc cho nhân dân (yên dân), đó là việc nhân nghĩa:
"Việc nhân nghĩa cốt ở yên dân
Quân điếu phạt trước lo trừ bạo"
    - Sức mạnh nhân nghĩa là sức mạnh Việt Nam để chiến thắng thù trong giặc ngoài. Đó là "Đại nghĩa" (nghĩa lớn vì nước vì dân), là lòng "chí nhân" (thương người vô hạn):
"Đem đại nghĩa để thắng hung tàn,
Lấy chí nhân để thay cường bạo"
    - Lòng căm thù giặc sôi sục, quyết không đội trời chung với quân "cuồng Minh":
Ngẫm thù lớn há đội trời chung,
Căm giặc nước thề không cùng sống
    - Tư tưởng nhân nghĩa của Ức Trai luôn luôn gắn liền với lòng "trung hiếu" và niềm "ưu ái" (lo nước, thương dân).
"Bui có một lòng trung lẫn hiếu
Mài chăng khuyết, nhuộm chăng đen"
                                                                             (Thuận hứng - 24)
"Bui một tấc lòng ưu ái cũ,
Đêm ngày cuồn cuộn nước triều Đông"
                                                                                (Thuật hứng - 5)
    *) Văn thơ Nguyễn Trãi thể hiện tình yêu thắm thiết đối với thiên nhiên, đối với quê hương, gia đình.
    - Yêu thiên nhiên:
    + Yêu cây cỏ hoa lá, trăng nước mây trời, chim muông ...
"Hái cúc ương lan, hương bén áo
Tìm mai, đạt nguyệt, tuyết xâm khăn"
"Kho thu phong nguyệt đầy qua nóc
Thuyền chở yên hà nặng vạy then"
"Cò nằm, hạc lẩn nên bầy bạn
Ủ ấp cùng ta làm cái con"
    + Yêu quê hương gia đình:
"...Ngỏ cửa nho, chờ khách đến
Trồng cây đức, để con ăn"
"Nợ cũ chước nào báo bổ
Ơn thầy ơn chúa liễn ơn cha"
"Quê cũ nhà ta thiếu của nào
Rau trong nội, cá trong ao"
    + Yêu danh lam thắng cảnh.
"Muôn hàng giáo ngọc tre gài cửa
Bao dải tua châu đá rủ mành"
(Đề chùa Hoa yên, núi Yên Tử)
"Một vùng biếc sẫm gương lồng bóng,
Muôn hộc xanh om tóc mượt màu"
                                                                                          (Vân Đồn)
"Kình ngạc băm vằm non mấy khúc
Giáp gươm chìm gẫy bãi bao tầng"
                                                                                (Cửa biển Bạch Đằng)
    *) Một cuộc đời thanh bạch, một tâm hồn thanh cao.
...."Một tầm lòng son ngời lửa luyện.
Mười năm thanh chức ngọc hồ băng"
..."Nước biển non xanh thuyền gối bãi
Đêm thanh nguyệt bạc khách lên lầu".
"Say minh nguyệt, chè ba chén
Thú thanh phong, lều một gian "
"Sách một hai phiên làm bậu bạn.
Rượu năm ba chén đổi công danh"
    b. Nghệ thuật
    - Văn chính luận như "Bình Ngô Đại Cáo" thì hùng hồn, đanh thép, sắc sảo, đúng là tiếng nói của một dân tộc chiến thắng, một đất nước có nền văn hiến lâu đời.
    - Thơ chữ Hán hàm súc, tinh luyện, thâm trầm. Thơ chữ Nôm bình dị mà tài hoa, thiết tha đằm thắm. Thơ thất ngôn xen lục ngôn là một dấu ấn kì lạ của nền thơ chữ Nôm dân tộc.
    Nguyễn Trãi là anh hùng dân tộc, nhà văn hoá vĩ đại, là đại thi hào dân tộc. Nguyễn Trãi còn là ông tiên ở trong lầu ngọc mà tâm hồn lộng gió thời đại. Cuộc đời và thơ văn Nguyễn Trãi là bài ca yêu nước, tự hào dân tộc.
2. T¸c gi¶ TrÇn Quang Kh¶i
    Trần Quang Khải (1241 - 1294) là thượng tướng, có công lớn trong cuộc kháng chiến (lần thứ 2 và lần thứ 3) đánh thắng giặc Nguyên – Mông. Học rộng, giỏi thơ văn, có tài thao lược và ngoại giao. Ông có tập thơ "Lạc đạo", nổi tiếng nhất là bài thơ "Tụng giá hoàn kinh sư" 
Xuất xứ chủ đề
    a. Tháng 4/1285, Trần Nhật Duật chém đầu Toạ Đô tại Hàm Tử quan. Tháng 6/1285, Trần Quang Khải đại phá giặc Nguyên Mông tại Chương Dương độ, tiến lên giải phóng Thăng Long. Bài thơ "Tụng giá hoàn kinh sư "được viết sau chiến thắng Chương Dương độ.
    b. Bài thơ biểu lộ niềm tự hào, niềm vui thắng trận và nói lên khát vọng đem tài trí xây dựng đất nước thanh bình bền vững muôn đời.
    Bài thơ được viết theo thể thơ ngũ ngôn tứ tuyệt. Hai câu đầu bình đối như hai trang kí sự chiến trường. Vị ngữ "đoạt sóc" (cướp giáo) và "cầm Hồ" (bắt giặc Mông Cổ) được đặt ở đầu câu, thể hiện hai thế đánh, hai cú đánh liên tiếp giáng xuống đầu giặc với sức mạnh "Sát Thát" của tướng sĩ thời Trần. Chương Dương độ và Hàm Tử quan, hai địa danh, hai chiến công đã được ghi vào sử sách và thơ ca dân tộc trở nên trường tồn, chói lọi:
"Đoạt sóc Chương Dương độ
Cầm Hồ Hàm Tử quan "
    Câu thơ như một bản tin chiến sự, có một sức nén và vang xa, dạt dào tự hào. Phải là người tham dự, chỉ huy trận đánh mới viết hàm súc và đĩnh đạc, hào hùng như vậy.
          Hai câu cuối, một ý thơ mới xuất hiện. Trong khói lửa chiến trường, trong niềm vui chiến thắng giải phóng kinh thành Thăng Long trên đống tro tàn do lũ giặc gây ra, nhà thơ nghĩ đến nhiệm vụ mới:
"Thái bình tu trí lực
Vạn cổ thử giang san”
    Trước mắt mọi người, từ vua tôi, tướng sĩ đến trăm họ, toàn dân, ai ai cũng phải đem tài trí sức lực, của cải (trí lực) để xây dựng giang san đất nước bền vững trong thanh bình đến muôn đời. Nhãn quan chính trị của Trần Quang Khải vô cùng sáng suốt. Câu thơ trên có ý nghĩa thời sự đối với chúng ta hiện nay.
    Tóm lại, "Tụng giá hoàn kinh sư" là bài thơ kiệt tác. Bản dịch của tác giả Trần Trọng Kim rất đặc sắc.
                                                                             

Tổng số điểm của bài viết là: 0 trong 0 đánh giá

Click để đánh giá bài viết

  Ý kiến bạn đọc

global video
Thống kê
  • Đang truy cập45
  • Hôm nay6,944
  • Tháng hiện tại18,943
  • Tổng lượt truy cập8,122,148
Bạn đã không sử dụng Site, Bấm vào đây để duy trì trạng thái đăng nhập. Thời gian chờ: 60 giây