BÀI 12: CHIẾC THUYỀN NGOÀI XA (Nguyễn Minh Châu) I/ GIỚI THIỆU: Nguyễn Minh Châu là nhà văn giàu tâm huyết, luôn trăn trở về một nền văn học xứng đáng với tầm vóc dân tộc và với sự kì vọng của nhân dân. Sau 1975, cảm hứng của ông dần dần chuyển sang tính chất triết luận về những giá trị nhân bản đời thường, khám phá ý nghĩa bản chất con người trong cuộc sống. Truyện ngắn “Chiếc thuyền ngoài xa” được in lần đầu tiên trong tập “ Bến quê “, sau được tác giả lấy làm tên chung cho cả tuyển tập truyện ngắn của mình, in năm 1987. II/ PHÂN TÍCH. 1. Xuất xứ - Chiếc thuyền ngoài xa được Nguyễn Minh Châu viết năm 1983 – khi cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước đã đi qua được 8 năm, đất nước trở lại với cuộc sống đời thường. Nhiều vấn đề của đời sống văn hóa nhân sinh mà trước đây do hoàn cảnh chiến tranh chưa được chú ý, nay được đặt ra. - Tác phẩm nằm trong xu hướng nghệ thuật chung của văn học thời kỳ đổi mới: hướng nội, khai thác sâu sắc số phận cá nhân và thân phận con người đời thường. 2.Tóm tắt Theo yêu cầu của trưởng phòng, nghệ sĩ nhiếp ảnh Phùng đến một vùng ven biển miền Trung (cũng là nơi anh đã từng chiến đấu) để chụp một tấm ảnh cho cuốn lịch năm sau. Sau nhiều ngày “phục kích”, người nghệ sĩ đã phát hiện và chụp được “một cảnh đắt trời cho” – đó là cảnh một chiếc thuyền ngoài xa đang ẩn hiện trong biển sớm mờ sương. Nhưng khi chiếc thuyền vào bờ, anh đã kinh ngạc hết mức khi chứng kiến từ chính chiếc thuyền đó cảnh một gã chồng vũ phu đánh đập người vợ hết sức dã man, đứa con vì muốn bảo vệ mẹ đã đánh trả lại cha mình. Những ngày sau, cảnh tượng đó lại tiếp diễn và lần này người nghệ sĩ đã ra tay can thiệp... Theo lời mời của chánh án Đẩu (một người đồng đội cũ của Phùng), người đàn bà hàng chài đã đến toà án huyện. Tại đây, người phụ nữ ấy đã từ chối sự giúp đỡ của Đẩu và Phùng, nhất quyết không bỏ lão chồng vũ phu. Chị đã kể câu chuyện về cuộc đời mình và đó cũng là lí do giải thích cho sự từ chối trên. Rời vùng biển với khá nhiều ảnh, người nghệ sĩ đã có một tấm được chọn vào bộ lịch “tĩnh vật hoàn toàn” về “thuyền và biển” năm ấy. Tuy nhiên, mỗi lần đứng trước tấm ảnh, người nghệ sĩ đều thấy hiện lên cái màu hồng hồng của ánh sương mai và nếu nhìn lâu hơn, bao giờ anh cũng thấy hình ảnh người đàn bà nghèo khổ, lam lũ ấy bước ra từ bức tranh. 3. Ý nghĩa nhan đề “Chiếc thuyền ngòai xa”. - Chiếc thuyền ngoài xa trước hết là biểu tượng của nghệ thụât. Đó là thứ nghệ thụât đạt tới sự toàn mĩ và thánh thiện đến mức, mà khi chiêm ngưỡng nó, người nghệ sĩ thấy tâm hồn mình được thanh lọc. - Chiếc thuyền khi về gần, đó lại là hiện thân của cuộc đời lam lũ, khó nhọc, thậm chí của những éo le, trái ngang và nghịch lí trong cuộc sống. - Như vậy, chiếc thuyền nghệ thuật thì ở ngoài xa nhưng cuộc đời thì lại rất gần. Người nghệ sĩ cần có một khoảng cách nhất định để khám phá và thưởng thức vẻ đẹp đích thực của nghệ thụât nhưng lại cũng cần bám sát cuộc đời để phát hiện ra những sự thật của cuộc sống. - Nhan đề là một ẩn dụ về mối quan hệ giữa cuộc đời và nghệ thuật. Trước khi là một nghệ sĩ biết rung động trước cái đẹp, hãy là một con người biết yêu ghét, vui buồn trước mọi lẽ đời thường tình. |
4/ Phân tích nhân vật người đàn bà hàng chài 1/MB: NMC là một nhà văn luôn đi tìm “hạt ngọc ẩn sâu trong tâm hồn con người”. Ông được coi là người mở đường tài năng và tinh anh của văn học VN thời kì đổi mới theo hướng tiếp cận đời sống ở góc độ triết lí thế sự. Truyện “Chiếc thuyền ngòai xa” là một minh chứng tiêu biểu cho những đổi mới của Nguyễn Minh Châu trong cách nhìn hiện thực. Nhân vật người đàn bà hàng chài trong tác phẩm này đã để lại nhiều ấn tượng và cảm xúc trong lòng người đọc. 2/ TB a/ Để tạo nên hình tượng người đàn bà ấy nhà văn đã tạo ra tình huống truyện độc đáo và từ tình huống độc đáo này mà nhân vật dần hé lộ số phận. - Truyện được kể lại qua lời của nghệ sĩ nhiếp ảnh Phùng, một người lính vừa bước ra từ cuộc chiến tranh nhiều đau thương mất mát. Phùng được dịp trở về chiến trường xưa để chụp một bức tranh cảnh biển theo lời đề nghị của trưởng phòng. Tại đây anh đã phát hiện ra một bức tranh cảnh biển có một không hai: “Trước mặt tôi là một bức tranh mực tầu của một danh họa thời cổ. Mũi thuyền in một nét mơ hồ lòe nhòe vào bầu sương mù trắng như sữa có pha đôi chút màu hồng hồng do ánh mặt trời chiếu vào. Vài bóng người lớn lẫn trẻ con ngồi im phăng phắc như tượng trên chiếc mui khum khum, đang hướng mặt vào bờ”. Cảnh đẹp đến nỗi Phùng có cảm giác bối rối, trái tim như bị bóp thắt vào. - Nhưng đằng sau chiếc thuyền đẹp như trong mơ ấy lại là một cảnh tượng phũ phàng: người chồng vũ phu, thô bạo hành hạ người đàn bà bằng những trận đòn thù, người đàn bà nhẫn nhục chịu đựng. Phùng từ sung sướng đến ngạc nhiên, sững sờ sửng sốt. Nghịch cảnh ấy khiến lòng anh tan vỡ. - Trong suốt câu chuyện, nguời đàn bà làng chài không có tên, chỉ được gọi là “người đàn bà”, là “mụ”, là “ chị”_những cách gọi phiếm định. Đó là người đàn bà vô danh. Đây là một dụng ý nghệ thuật của tác giả. Không phải nhà văn "nghèo" ngôn ngữ đến độ không thể đặt cho chị một cái tên mà là vì chị cũng giống như hàng trăm người đàn bà ở vùng biển nhỏ bé này. Dù vô danh, nhưng người đọc sẽ không quên được chị bởi những nét đặc biệt về tính cách và nỗi đau thân phận mà chị phải gánh chịu. b/ Lai lịch: Trước đây Chị vốn là con của một gia đình khá giả nhưng số phận đã không may mắn với chị. Chị mắc bệnh đậu mùa. Di chứng để lại đó là cái xấu. Cái xấu xí thô kệch đã đeo đuổi chị như một định mệnh. c/ Ngọai hình và hòan cảnh sống: - Đó là một “người đàn bà trạc ngoài bốn mươi, một thân hình quen thuộc của đàn bà vùng biển, cao lớn với những đường nét thô kệch. Mụ rỗ mặt. Khuôn mặt mệt mỏi sau một đêm thức trắng kéo lưới, tái ngắt và dường như đang buồn ngủ, tấm lưng áo bạc phếch và rách rưới.” -Cặp mắt của chị hay nhìn xuống thể hiện sự nhẫn nhục, câm lặng, dự báo một thân phận đầy bất hạnh. -Vì xấu xí không ai lấy nên chị trót có mang với một anh hàng chài nhà ở giữa phá vẫn hay đến nhà chị mua bả về đan lưới. Thế rồi thành vợ thành chồng. Chị xuống ở luôn dưới thuyền. . Cuộc sống mưu sinh trên biển cực nhọc, vất vả, lam lũ, bấp bênh: “có nhiều tháng biển động phải ăn cây xương rồng luộc chấm muối”. Gia đình nghèo lại còn đông con, thuyền thì chật. => Những chi tiết miêu tả ngoại hình và hòan cảnh sống đầy ấn tượng của tác giả đã làm hiện lên hình ảnh một người phụ nữ vất vả, cơ cực, lam lũ cả một đời. d/ Tính cách và tâm hồn . - Vì túng quẫn, đói nghèo, thất học, lạc hậu, lão chồng của chị từ một anh con trai “hiền lành nhưng cục tính” đã trở thành một kẻ vũ phu lỗ mãng. Hắn đã lấy phương pháp đánh vợ để giải tỏa những bế tắc cuộc sống. Bị chồng thường xuyên đánh đập, hành hạ bằng một chiếc thắt lưng của lính ngụy ngày xưa: “ba ngày một trận nhẹ, năm ngày một trận nặng”. Cứ khi nào lão thấy khổ quá là lại xách chị ra đánh, như là để trút giận, như đánh một con thú, với lời lẽ cay độc" Mày chết đi cho ông nhờ, chúng mày chết hết đi cho ông nhờ". “Mày” ở đây là vợ ông ta. “Chúng mày” là vợ con của ông ta. - Dù vậy, chị lặng thầm đón nhận “với một vẻ cam chịu đầy nhẫn nhục, không hề kêu một tiếng, không chống trả cũng không tìm cách chạy trốn”mà coi đó là một lẽ đương nhiên. Thậm chí chị còn yêu cầu hắn “ Muốn đánh chị thì đưa chị lên bờ để đánh vì chị không muốn để những đứa con nhìn thấy cảnh bố hành hạ mẹ”. Vì đâu chị lại chịu đựng và cam chịu như vậy? - Vì đó là một người đàn bà giàu đức hi sinh và thương con. + Khi đứa con chị là thằng Phác, vì quá thương mẹ nên đã lao vào đánh lại cha nó, chị đã khóc, ôm chầm lấy nó mà kêu lên: “Phác, con ơi!”. Hành động ấy thể hiện nỗi đau tột cùng của người mẹ. Chị muốn tạ lỗi với con vì đã làm tổn thương trái tim bé bỏng của nó, và cũng van xin con đừng làm những điều có lỗi với cha mình. + Ra ngoài đời, chị bộc lộ vẻ lúng túng sợ sệt thật đáng thương. Khi được mời đến tòa án để giải quyết bi kịch gia đình, chị chỉ dám chọn một góc tường để ngồi. Sau đó được mời chị mới dám rón rén ngồi xuống mép ghế và cố thu người lại. Nhưng khi phải lí giải nguyên nhân không chịu từ bỏ gã chồng vũ phu hành hạ mình, thì chị tỏ ra sắc sảo không ngờ. Chị kiên quyết từ chối lời đề nghị của chánh án Đẩu: “quý tòa… phạt tù con cũng được, đừng bắt con bỏ nó…” Người đàn bà đau khổ kể lại câu chuyện cuộc đời mình nhằm gián tiếp đưa ra những lí do khiến mình không thể bỏ chồng. + Trong cuộc mưu sinh đầy cam go: thuyền ở xa biển, cần một người đàn ông khỏe mạnh, biết nghề, để chung tay nuôi những đứa con khôn lớn nên người. “Mong các chú cách mạng thông cảm cho, đám đàn bà hàng chài ở thuyền chúng tôi cần phải có người đàn ông để chèo chống phong ba, để cùng làm ăn nuôi nấng đặng một sắp con, nhà nào cũng trên dưới chục đứa. + Chị cũng là người vợ luôn biết quý trọng chắt chiu những giây phút hạnh phúc của đời thường, giản dị mà thật cảm động: “Ở trên chiếc thuyền, cũng có lúc vợ chồng con cái chúng tôi sống hòa thuận, vui vẻ”. Và “vui nhất là lúc ngồi nhìn đàn con tôi chúng nó được ăn no.” Vẻ đẹp tâm hồn của chị gòn thể hiện ở thiên chức làm mẹ thiêng liêng và tình thương con vô bờ. “ông trời sinh ra người đàn bà là để đẻ con rồi nuôi con cho đến khi khôn lớn, cho nên phải gánh lấy cái khổ,…đàn bà ở thuyền chúng tôi phải sống cho con chứ không thể sống cho mình…”. Chị hiểu như thế nào là nỗi đau của những trẻ thơ sống trong cảnh bố mẹ ly dị. Chị không muốn nhìn cảnh các con thấy bộ mẹ chia tay. Cũng vì thương con chị đã yêu cầu lão đàn ông vũ phu mang chị lên bờ mà đánh vì sợ con nhìn thấy. Vì thương con mà chỉ đưa thằng Phác lên bờ để sống. Đó là triết lí sống thật giản dị mà sâu sắc vô cùng! + Chị cũng hiểu và thông cảm cho chồng: chị thừa nhận chồng chị trước kia là “anh con trai hiền lành nhưng cục tính”, chẳng qua vì đói nghèo, thất học, túng quẫn lão chồng mới sinh ra vậy. Đây chính là sự hiểu đời, sự thông cảm và vị tha của chị. Chị không hề oán trách chồng mà ngược lại chị rất cảm thông cho hành động của chồng. Chồng chị là nạn nhân của hòan cảnh sống nghiệt ngã, chứ không phải là một người cay nghiệt, độc ác trong bản chất. Người đàn bà hàng chài vừa lam lũ, chất phác, có tình thương con vô bờ bến, vừa luôn mang nỗi đau, vừa có cái thâm trầm trong việc thấu hiểu các lẽ đời. Thấp thoáng trong người đàn bà ấy là bóng dáng của biết bao phụ nữ Việt Nam nhân hậu, bao dung, giàu lòng vị tha và đức hi sinh. e/ Nhận định về nhân vật: Bằng thủ pháp đối lập giữa vẻ bề ngòai và tâm hồn bên trong, giữa số phận bất hạnh và lòng cao thượng khi xây dựng nhân vật, nhà văn đã kẳng định những phẩm chất tốt đẹp, cao cả trong tâm hồn người phụ nữ nghèo khổ giữa cuộc mưu sinh đầy nhọc nhằn. Chị hấp dẫn người đọc ở vẻ đẹp tình mẫu tử thiêng liêng, ở cách hóa giải bi kịch của cuộc đời mình bằng nguyên lí của tình yêu thương, sự hi sinh và tha thứ. 3/ KB: Với việc tạo tình huống truyện độc đáo, ngôi kể, điểm nhìn nghệ thuật sắc sảo, đa diện, lời văn giản dị mà sâu sắc, qua câu chuyện của người đàn bà, nhà văn đưa ra một thông điệp: Không thể dễ dãi, đơn giản trong việc nhìn nhận mọi sự vật, hiện tượng của cuộc sống mà phải có cái nhìn đa diện, nhiều chiều, phổ quát thì mới hiểu được những sắc cạnh của cuộc đời. Vì “con người thì đa đoan, cuộc đời thì đa sự”. |
5/ Một số nhân vật khác - Chánh án Đẩu : + Là người đại diện cho công lý, luật pháp; có lòng tốt, sẵn sàng bảo vệ công lý. + Nhưng Đẩu mới nhìn cuộc đời của người đàn bà vùng biển ở một phía, anh chưa thực sự đi sâu vào đời sống nhân dân. - Nhân vật người chồng của người đàn bà hàng chài + Vốn là một “anh con trai cục tính nhưng hiền lành lắm” + Một gã đàn ông vũ phu, tàn nhẫn, ích kỉ. + Một nạn nhân của hoàn cảnh sống khắc nghiệt. - Thằng bé Phác + Một cậu bé giàu tình cảm yêu thương đối với mẹ. + Nhưng cũng giống như Đẩu, Phùng, nó mới chỉ nhìn thấy ở cha nó ở khía cạnh độc ác, tàn nhẫn mà chưa hiểu được “lẽ đời” bên trong. + Hình ảnh tiêu biểu của những đứa trẻ trong những gia đình có nạn bạo hành. 6. Đặc sắc nghệ thuật - Tình huống truyện độc đáo, “tình huống nhận thức”, có ý nghĩa khám phá, phát hiện về chân lí đời sống, chân lí nghệ thuật. - Ngôi kể, điểm nhìn nghệ thuật sắc sảo, đa diện. - Lời văn giản dị mà sâu sắc. 7. Chủ đề Qua tác phẩm Chiếc thuyền ngoài xa, Nguyễn Minh Châu đã thể hiện sự cảm thông sâu sắc đối với những cảnh đời, những thân phận trớ trêu, gặp nhiều bất hạnh trong cuộc sống đồng thời gửi gắm những chiêm nghiệm sâu sắc của mình về nghệ thuật : nghệ thuật chân chính phải luôn luôn gắn bó với cuộc đời và vì cuộc đời; người nghệ sĩ không thể nhìn đời một cách giản đơn, cần phải nhìn nhận cuộc sống và con người một cách đa diện, nhiều chiều. |
Ý kiến bạn đọc
Những tin mới hơn
Những tin cũ hơn